Lupus ban đỏ hệ thống (SLE) là một bệnh tự miễn phức tạp và có khả năng gây tử vong cho bệnh nhân nếu không được điều trị kịp thời. Hiện nay, các phương pháp điều trị căn bệnh này còn có nhiều hạn chế và chưa thể đáp ứng hết nhu cầu điều trị. Và gần đây, artemisinin và các dẫn xuất của nó đã được báo cáo là có tác dụng ức chế miễn dịch ở bệnh nhân lupus ban đỏ. Cụ thể vấn đề này là như thế nào? Các đặc tính trị liệu và cơ chế tác dụng của artemisinin trong điều trị căn bệnh này là gì? Mời bạn cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây.
Từ năm 1996 đến năm 2011, đã có 5 nghiên cứu độc đáo được công bố trên 7 tạp chí về tác dụng này của Artemisinin tại Trung Quốc. Trong đó, có ba thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) và hai thử nghiệm không ngẫu nhiên.
Những người tình nguyện tham gia nghiên cứu đã đáp ứng tiêu chí ACR 1982 để phân loại bệnh lupus ban đỏ trong cả năm nghiên cứu. Trong số 252 bệnh nhân tham gia, có 228 bệnh nhân là nữ. Độ tuổi trung bình của các bệnh nhân là 23 – 44 tuổi, với thời gian mắc bệnh trung bình là 11 – 46 tháng.
Trong số các nghiên cứu này, một thử nghiệm đã sử dụng artemisinin, trong khi những nghiên cứu khác sử dụng artesunate và quá trình điều trị kéo dài từ 15 ngày đến 3 năm .
Ba thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng (RCT) điều trị bằng cách kết hợp artemisinin với prednisone, viên Lingdan hoặc bột đông trùng hạ thảo. Trong khi các thử nghiệm còn lại sử dụng prednisone, viên tripterygium hoặc viên Baoshen Khang.
Sau đó, các nhà nghiên cứu đã đánh giá kết quả lâm sàng chính là tổng tỷ lệ hiệu quả, đánh giá tình trạng bệnh lupus tổng thể theo tiêu chuẩn đánh giá và chẩn đoán bệnh năm 1991 của Trung Quốc bao gồm:
Chú ý: Tổng tỷ lệ hiệu quả (%) được tính bằng phép tính lấy số lượng bệnh nhân được cải thiện chia cho tổng số số lượng bệnh nhân tham gia nghiên cứu. Sau đó, kết quả này sẽ được phân thành 3 loại như sau:
Một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng đối với 45 bệnh nhân sử dụng viên nén artesunate (với liều dùng là 50 mg, hai lần một ngày) kết hợp với viên Lingdan và prednisone (0,25 - 0,8 mg/kg/ngày) trong 3 tháng. Trong khi đó, những bệnh nhân mắc bệnh lupus ban đỏ trong nhóm đối chứng chỉ được dùng thuốc prednisone (0,8 - 1,25 mg/kg/ngày).
Kết quả cho thấy ở nhóm đối chứng thì dùng prednisone đã làm giảm các triệu chứng của bệnh như sốt, đau khớp, ban đỏ, phát ban và rụng tóc.
Tuy nhiên, hiệu quả lâm sàng của nhóm dùng liệu pháp phối hợp artesunate tốt hơn đáng kể so với bệnh nhân chỉ dùng prednisone. Cụ thể là ở nhóm bệnh nhân dùng liệu pháp phối hợp artesunate giảm đáng kể protein niệu trong 24 giờ, giảm tốc độ lắng hồng cầu và giảm liều lượng prednisone cần phải sử dụng.
Không những vậy, so với nhóm đối chứng thì nhóm bệnh nhân điều trị phối hợp artesunate cũng thu được kết quả rất khả quan như: tăng số lượng tế bào lympho T (CD3 và CD4), tỷ lệ tế bào lympho CD4 / CD8, tăng hoạt động của cytokine IL-2 và giảm nồng độ thụ thể interleukin-2 (sIL-2R).
Nghiên cứu cũng kết luận rằng viên chứa hoạt chất artesunate có thể điều chỉnh hệ thống miễn dịch của người bệnh lupus ban đỏ hệ thống theo hai chiều: cân bằng chức năng miễn dịch của bệnh E bằng cách giảm mức độ sIL-2R và tăng cường chức năng tế bào lympho T, hoạt động của IL-2.
Trong nghiên cứu ngẫu nhiên thứ hai, 61 bệnh nhân bị viêm thận lupus không hoạt động được phân ngẫu nhiên thành hai nhóm, mỗi nhóm được điều trị 3 năm.
Sử dụng artemisinin với liều 0,2 g,3 lần/ngày và đông trùng hạ thảo cho nhóm thử nghiệm ngẫu nhiên, và viên thuốc trippetgium glycosides và viên Baoshen Khang được dùng trong nhóm đối chứng.
So với nhóm đối chứng, tổng tỷ lệ hiệu quả của nhóm điều trị được cải thiện đáng kể (83,9% so với mức độ bổ sung 3 trong nhóm điều trị cũng được cải thiện đáng kể so với nhóm đối chứng.
Nghiên cứu cũng kết luận rằng artemisinin và đông trùng hạ thảo có thể trì hoãn sự tái phát của viêm thận do bệnh lupus ban đỏ gây ra, bảo vệ chức năng thận và cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân mắc bệnh lupus ban đỏ.
Nghiên cứu được tiến hành trên 60 bệnh nhân bị viêm thận do lupus ban đỏ, bệnh nhân viêm thận lupus class I và II được điều trị bằng artesunate (với liều 50 mg, hai lần một ngày) và nhóm đối chứng được điều trị bằng viên thuốc trippetgium glycosides (10 mg, ba lần một ngày). Bệnh nhân class III viêm thận lupus được điều trị bằng thuốc prednisone (0,5 m /kg/ngày) kết hợp với artesunate.
Kết quả tổng thể cho thấy nhóm điều trị bằng artesunate đã giảm protein nước tiểu trogn 24 giờ, giảm tốc độ máu lắng, cải thiện triệu chứng viêm thận lupus, nâng cao chỉ số miễn dịch và tổng hiệu quả so với nhóm nhóm sử dụng glycoside triptergium.
Hai nghiên cứu so sánh không ngẫu nhiên đã sử dụng artesunate theo đường tiêm tĩnh mạch (với liều 60 mg/ngày) cùng với prednisone cho các bệnh nhân bệnh lupus ban đỏ.
Sau 2 đến 8 tuần điều trị, 30 bệnh nhân trong nghiên cứu đầu tiên cho thấy sự cải thiện các triệu chứng lâm sàng bao gồm tổn thương da, đau khớp, dị ứng nhẹ, rụng tóc và sốt.
Nghiên cứu thứ hai được thực hiện để nghiên cứu sâu hơn về tác dụng của artesucnate đối với tổn thương da ở 26 bệnh nhân mắc bệnh lupus ban đỏ hệ thống. Sau 2 tuần điều trị artesunate với kem kẽm sulfat, tổng tỷ lệ hiệu quả của các bệnh nhân này là 90%.
Những nghiên cứu đã có kết luận quan trọng rằng artesunate có thể làm giảm bớt sự nhạy cảm với ánh sáng, tổn thương da, cải thiện hoạt động ức chế tế bào T và ức chế sự hình thành các phức hợp miễn dịch lưu hành ở bệnh nhân lupus.
Để tìm hiểu về cơ chế artemisinin và các dẫn xuất, các nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu trên chuột mắc bệnh lupus. Và kết quả thu được là cơ chế này có liên quan đến các con đường khác nhau của hệ thống miễn dịch, bao gồm sự tác động của artemisinin lên các cytokine khác nhau, tế bào miễn dịch và đường dẫn truyền tín hiệu.
Trong đó, ba mô hình chuột (MRL / lpr, NZBW / F1 và BXSB) đã được sử dụng trong 12 trong số 19 nghiên cứu, tự phát triển bệnh giống lupus ở người. Bảy nghiên cứu còn lại đã sử dụng mô hình thu được bằng cách tạo ra chuột BALB/C, B6D2F1 hoặc KM thành chuột mắc bệnh lupus.
Thời gian điều trị dao động từ 1 đến 18 tuần. Các dẫn xuất artemisinin đã được quan sát trong các thí nghiệm bao gồm artemisinin, dihydroartemisinin (DHA), artesunate và một loại artemether có tên SM934.
Ba nghiên cứu đã điều tra các hành động chống viêm của artemisinin đối với bệnh lupus ban đỏ bằng mô hình chuột lupus B6D2F1 và KM.
Hai trong 3 nghiên cứu này đã phát hiện ra rằng dùng artemisinin uống (với liều dùng 150 và 5,55 mg /kg /ngày) đã thu được kết quả như sau:
Ngoài ra, việc điều trị artemisinin đã cho thấy rằng làm tăng đáng kể biểu hiện của protein P300/CBP trong các mô thận và thụ thể của glucocorticoid là α (GRα) mRNA trong tế bào đơn nhân máu ngoại vi (PBMCs) so với điều trị bằng thuốc prednisone ở chuột mắc viêm lupus.
Hơn thế nữa, nghiên cứu trên chuột KM bị nhiễm bệnh lupus cũng cho kết quả rằng artemisinin (5,55 mg/kg/ngày) kết hợp với liệu pháp HCQ liều thấp có tác dụng bảo vệ thận bằng cách điều chỉnh tăng biểu hiện của yếu tố giống Krüppel 15 (KLF15) mRNA và điều hòa giảm mRNA NF-κB.
Các nhà khoa học đã tiến hành bảy nghiên cứu đánh giá dihydroartemisinin là can thiệp chính trên chuột mắc bệnh lupus, bốn nghiên cứu đã sử dụng mô hình chuột BXSB (5 - 125 mg/kg /ngày). Tương tự như artemisinin, cơ chế tác dụng của dihydroartemisinin chính là giảm TNF-α có trong huyết thanh trên chuột BXSB nhiễm lupus.
Điều trị bằng dihydroartemisinin cũng dẫn đến số lượng tế bào T CD4 và CD8 tăng đáng kể và giảm số lượng tế bào B trong lách. Điều này cho thấy dihydroartemisinin có thể ức chế sự kích hoạt tế bào B và kích thích sản xuất kháng thể.
Những thí nghiệm này cũng cho thấy dihydroartemisinin đã ngăn chặn sự biểu hiện của NF-κB p65 ở chuột BXSB, do đó ngăn ngừa phản ứng viêm và làm giảm bệnh lý về thận ở những con chuột mắc bệnh lupus ban đỏ.
Cơ chế ức chế miễn dịch của artesunate trên bệnh lupus đã được nghiên cứu trong sáu nghiên cứu sử dụng mô hình chuột lupus MRL /lpr và BALB/C. Hai nghiên cứu cho thấy artesunate (25 mg/kg/ngày) làm giảm đáng kể nồng độ IL-6 và TGF-β ở chuột lupus BALB/C.
Sau đó, một số bằng chứng cũng cho thấy rằng điều trị artesunate (0,42 - 1,68 mg / ngày) đã cải thiện sự tiến triển của bệnh bằng cách điều chỉnh sự tăng sinh của các tập hợp tế bào T ở chuột BALB/C, tương tự như hiệu quả điều trị của dihydroartemisinin.
Hơn nữa, điều trị bằng artesunate (50 và 125mg / kg / ngày) có thể ức chế sự biểu hiện của các cytokine gây viêm ở chuột mắc bệnh lupus MRL / lpr, chẳng hạn như yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF), protein hóa trị đơn bào-1 (MCP-1) , yếu tố kích hoạt tế bào B (BAFF) và phân tử kết dính tế bào giữa các tế bào-1 (ICAM-1).
Bạn biết không, khi sử dụng artemisinin và các dẫn xuất trong điều trị bệnh sốt rét thì bệnh nhân có thể gặp phải một số tác dụng phụ nhẹ và hiếm gặp như: nôn, buồn nôn, tiêu chảy. Đối với dạng thuốc đạn artesunate thì có khoảng 6% bệnh nhân đã trải qua tình trạng tenesmus, tăng transaminase huyết thanh và giảm hồng cầu lưới và bạch cầu trung tính.
Một phân tích tổng hợp các thử nghiệm lâm sàng đã kết luận artemisinin và các dẫn xuất được coi là an toàn và dung nạp tốt. Không những vậy, có rất ít các trường hợp báo cáo vấn đề bất thường về việc sử dụng artemisinin trên lâm sàng ở trẻ em và phụ nữ mang thai.
Do đó, không đủ dữ liệu để chỉ ra độc tính của artemisin và các dẫn xuất cho trẻ em và thai nhi. Mà ngược lại, một trong những lợi ích tiềm năng chính của việc sử dụng artemisinin cho bệnh nhân SLE là giảm độc tính của điều trị.
Mong rằng qua những thông tin mà bài viết đã chia sẻ đã giúp các bạn có thêm nhiều thông tin, kiến thức hữu ích về tác dụng tiềm năng của artemisinin trong việc điều trị bệnh lupus ban đỏ hệ thống.
Viết bình luận