Nghiên cứu lâm sàng giai đoạn 2 về tác dụng của Sulforaphane (chiết xuất từ súp lơ xanh) trên nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt tái phát

Những nghiên cứu về tác dụng của Sulforaphane đang dừng lại ở trong phòng thí nghiệm, trên động vật. Và những nghiên cứu lâm sàng trên người còn rất hạn chế. Nếu bạn đang muốn tìm hiểu về nghiên cứu lâm sàng của Sulforaphane thì đừng bỏ qua bài viết này nhé.

1. Giới thiệu nghiên cứu lâm sàng

Ung thư tuyến tiền liệt là loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới Hoa Kỳ và là nguyên nhân phổ biến thứ hai liên quan đến tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân ung thư. Do đó, việc tìm ra phương pháp mới trong phòng ngừa và điều trị căn bệnh này càng trở nên cấp thiết.

Một số nghiên cứu dịch tễ học cho biết những người đàn ông có chế độ ăn nhiều rau họ cải có nguy cơ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn và bệnh nhân mắc căn bệnh này ở giai đoạn tiến triển thường có mức độ phát triển bệnh thấp hơn.

Và Sulforaphane là một hợp chất isothiocyanate được tìm thấy trong những thực phẩm này và điều trị bằng sulforaphane cho thấy kết quả chống khối u trong các mô hình ung thư tiền lâm sàng, bao gồm ung thư tuyến tiền liệt.

Trước đây, các nhà nghiên cứu đã xác định rằng sulforaphane ngăn chặn sự biểu hiện của protein thụ thể androgen (AR) - con đường truyền tín hiệu trung tâm trong ung thư tuyến tiền liệt; tác dụng này là do ức chế protein tế bào chất deacetylase HDAC6.

Bên cạnh đó, những nghiên cứu khác đã chứng minh rằng sulforaphane cũng ức chế protein HDAC có cơ chất chính là histones.

Hơn nữa, các nghiên cứu với sulforaphane chứa mầm bông cải xanh ở những người tình nguyện bình thường đã chứng minh sự ức chế chức năng HDAC trong các tế bào máu đơn nhân ngoại vi (MC) ở một số đối tượng.

Tuy nhiên, hoạt động chống khối u, dược động học và dược lực học của sulforaphane ở nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt vẫn chưa được biết.

Trong cơ thể người, Sulforaphane được bài tiết dưới dạng liên hợp glutathione, một sản phẩm của quá trình chuyển hóa enzyme glutathione S transferase M1 (GSTM1) và các enzyme khác.

Có dữ liệu từ các nghiên cứu dịch tễ học về vai trò của kiểu gen GSTM1 đối với sự điều chỉnh nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt với việc tiêu thụ chế độ ăn nhiều rau họ cải.

Hơn nữa, các nghiên cứu trước đây ở người tình nguyện bình thường chứng minh rằng những người có kiểu gen GSTM1 null có diện tích dưới đường cong (AUC) cao hơn so với những người còn nguyên vẹn GSTM1 khi cho ăn thực phẩm có chứa sulforaphane.

Trong nghiên cứu lâm sàng này, chúng tôi đã nghiên cứu hiệu quả chống khối u, mức độ an toàn, dược động học và dược lực học của việc điều trị bằng chiết xuất từ bông cải xanh giàu sulforaphane với liều 200 µmol hàng ngày ở 20 người đàn ông bị ung thư tuyến tiền liệt tái phát.

2. Nguyên liệu và phương pháp nghiên cứu

- Bệnh nhân

Tất cả các đối tượng người bệnh tham gia vào nghiên cứu đã được chuẩn đoán mắc ung thư tuyến tiền liệt và đã điều trị bằng phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt hoặc sử dụng thuốc trong điều trị.

Cứ sau 4 tuần thử nghiệm, bệnh nhân được cho kiểm tra toàn diện để đánh giá hiệu quả điều trị và kiểm tra độc tính.

Việc tiến hành điều trị trong nghiên cứu có thể được tổ chức và trì hoãn đến 14 ngày. Nếu mức độ độc tính ≥ Grade 3 thì có thể liên quan đến Sulforaphane và nếu những tác dụng phụ này được giải quyết tới mức độ ≤ Grade 1 thì bệnh nhân có thể tiếp tục tham gia vào nghiên cứu, nhưng cần giảm 50% liều.

Nồng độ PSA (kháng nguyên đặc hiệu của tuyến tiền liệt) trong huyết thanh của bệnh nhân được đo 4 tuần/lần trong suốt 20 tuần điều trị

- Về hoạt động chống ung thư

Chỉ tiêu chính là tỷ lệ bệnh nhân bị giảm ≥ 50% nồng độ PSA trong vòng 20 tuần điều trị bằng sulforaphane.

Chỉ tiêu phụ là phần trăm thay đổi trong PSA từ đường cơ bản, ảnh hưởng của sự đa hình trong enzyme GSTM1 và phép đo dược lực học của ức chế HDAC trong MCs.

- Về mức độ an toàn

Các tác dụng phụ và giá trị phòng thí nghiệm được coi là có ý nghĩa lâm sàng dựa vào phân loại trên Tiêu chí Thuật ngữ chung của NIH CTEP Common Terminology Criteria for Adverse Events Version 4.0.

Các nhà nghiên cứu đã đo các chỉ số máu hoàn chỉnh (CBC) như tiểu cầu, các thông số chuyển hóa cơ bản, nồng độ hormone TSH và testoosterone 1, 5, 9, 13, 17, 21 và 14, 30 ngày sau liều điều trị cuối cùng.

Nồng độ testosterone được xác định là > 150 ng/dl ở tất cả các đối tượng trước khi tham gia nghiên cứu.

- Thu lấy mẫu máu

Các mẫu máu được lấy từ tất cả các bệnh nhân tại các thời điểm: 0,25; 0,5; 0,75; 1; 2; 4; 6; 8 và 10 giờ. Các tế bào máu đơn nhân máu ngoại vi được cô lập tại cùng thời điểm này.

 Huyết tương được đông lạnh trong 30 phút sau khi thu thập và được bảo quản - 80°C.

- Thử nghiệm dược lực học

Các tế bào máu đơn nhân ngoại vi được thu thập trong ống nghiệm chân không EDTA (EDTA - coated BD Vacutainer tubes). Máu pha loãng được phân đoạn bằng Ficoll-Paque PLUS (Công nghệ gốc Cat # 07967), theo hướng dẫn của nhà sản xuất và sử dụng một bước rửa duy nhất.

Quá trình acetyl hóa histone và mức độ beta-actin đối chứng đã được thử nghiệm bằng SDS-PAGE và Western blotting.

- Kiểu gen GSTM1

Toàn bộ máu được thu thập để xác định kiểu gen GSTM1. DNA được tách bằng cách sử dụng Gentra Puregene Blood Kit (Qiagen cat #158445) theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Kiểu gen GSTM1 được xác định bằng PCR bằng cách sử dụng các đoạn nucleic acid (ribonucleic acid) – đoạn khởi đầu cho quá trình nhân đôi của DNA.

Quá trình này sử dụng kỹ thuật điện di trên gel agarose. Mỗi bệnh nhân được phân loại nguyên vẹn kiểu gen GSTM1 (có ít nhất một alen GSTM1) nếu có một dải trong phản ứng PCR so với GSTM1 null (xóa đồng hợp tử) nếu một dải không có trong PCR.

- Chuẩn bị chiết xuất Sulforaphane từ bông cải xanh

Bông cải xanh (hay còn gọi là súp lơ xanh, tên khoa học là Brassica oleracea var. italica) được trồng từ những hạt được chọn với hàm lượng tối ưu glucophanin (tiền chất của sulforaphane). Hàm lượng Glucophanin phải đủ để tạo mầm xanh tươi trong 3 ngày sau khi trồng với hàm lượng ít nhất 6 µmol Glucophanin trong mỗi gam.

Sau 3 ngày mầm bông cải xanh tăng trưởng, chiết xuất sulforaphane được tiến hành. Mầm được ngâm vào nước khử ion sôi và duy trì ở nhiệt độ >95°C trong 30 phút và phần còn lại của mầm được loại bỏ bằng cách lọc.

Dịch chiết chứa nước ~ 5 μmol Glucophanin trong mỗi ml được làm lạnh đến 37 ° C và được xử lý bằng myrosinase, một loại enzyme có trong bông cải xanh, xử lý trong 4 giờ để chuyển Glucophanin thành sulforaphane.

Nồng độ isothiocyanate, sulforaphane và glucophanin dư sau đó được định lượng bằng phương pháp cyclocondensation và bằng HPLC trực tiếp.

Dịch chiết nước thủy phân được đông lạnh nhanh chóng và đông khô trong máy sấy đông lạnh công nghiệp.

- Chuẩn bị hiệu chuẩn sulforaphane, các chất chuyển hóa và mẫu máu

Các tiêu chuẩn Sulforaphane và chất chuyển hóa đã được điều chế bằng cách hòa tan các hợp chất trong metanol ở mức 1 mg / ml và pha loãng thích hợp trong metanol trước khi thêm nồng độ đã biết của tất cả các hợp chất ở nồng độ có liên quan.

Chất chuẩn nội, sulforaphane-NAC-d3 trong metanol được pha loãng thành 1 ng/10 μl và thêm vào từng mẫu và chất chuẩn. Tất cả huyết tương và chất chuẩn được bảo quản ở - 80 ° C.

Aliquots (100 l) huyết tương được đặt vào 1,7 ml. Ống Eppendorf và 10 μl chất chuẩn nội trong metanol đã được thêm vào.

Nồng độ đường cong chuẩn được chuẩn bị dao động từ 0 đến 20 ng/ml. Giới hạn phát hiện thấp hơn được đánh giá bằng tín hiệu nhiễu 3: 1 là 0,5 ng/ml và giới hạn định lượng thấp hơn là 2 ng/ml, thể hiện tín hiệu nhiễu 10: 1 và độ lệch chuẩn tương đối của mẫu dưới 20%.

Tất cả các mẫu được axit hóa bằng 5 μl axit formic 88% và khuấy đều, sau đó thêm 300 μl metanol lạnh băng vào tất cả các ống. Các ống được lắc bằng tay trong khoảng 1 phút.

Các mẫu sau đó được đặt trên băng trong 15 phút, ly tâm với lực 10.000 x g trong 15 phút ở 4 ° C. 200 μl chất nổi phía trên đã được lấy ra và đặt vào ống thủy tinh và sấy khô ở 35°C trong 25 phút dưới áp suất giảm.

Phần còn lại được hòa tan trong 100 μl axit formic 0,1% trong nước, sau đó quay nhanh để hỗ trợ thu hồi mẫu và chuyển sang bộ lọc spin Millipore.

Các bộ lọc được ly tâm với lực 10.000 x g trong 5 phút ở 4 ° C. Các mẫu được lọc sau đó được bơm khoảng 200 μl trong các lọ lấy mẫu tự động và được phân tích bằng sắc ký lỏng song song khối phổ (LC-MS/MS).

3. Kết quả

Có 16 bệnh nhân đã hoàn thành đủ 20 tuần điều trị, 2 bệnh nhân ngừng điều trị theo quyết định của điều tra viên do có mức PSA tăng và hai bệnh nhân ngừng điều trị nghiên cứu do gặp phải các vấn đề liên quan đến tiêu hóa và ảnh hưởng đến kết quả thí nghiệm.

3.1. Hiệu quả

Nồng độ PSA được đo 4 tuần/lần trong suốt quá trình nghiên cứu. Hình 1 cho thấy sự suy giảm PSA tối đa trong quá trình nghiên cứu.

  • Có 1 bệnh nhân đạt được sự suy giảm PSA ≥ 50%.
  • 7 bệnh nhân đạt được mức giảm PSA ít hơn, từ 3 đến 20%.
  • 8 bệnh nhân không trải qua bất kỳ suy giảm mức độ PSA nào trong quá trình nghiên cứu.

Sau khi kết thúc nghiên cứu, giá trị PSA thấp hơn so với đường cơ sở ở ba đối tượng. Trong khi đó, 17 đối tượng có giá trị PSA nghiên cứu cao hơn so với đường cơ sở.

Khi đánh giá toàn bộ đối tượng tham gia nghiên cứu, tỷ lệ thay đổi PSA được điều chỉnh đáng kể với thời gian nhân đôi dự đoán tăng từ 6,1 tháng lên tới 9,6 tháng.

Các tác dụng phụ phổ biến nhất 

xảy ra trong > 15% đối tượng là rối loạn tiêu hóa, trong đó:

  • 4 đối tượng xuất hiện các triệu chứng đầy hơi, tiêu chảy và khó tiêu.
  • 7 đối tượng trải qua đầy hơi.

Và có một bệnh nhân phải ngừng tham gia nghiên cứu do tác dụng phụ của điều trị. Không có thay đổi đáng kể về mặt lâm sàng trong các chỉ số đánh giá về chức năng tuyến giáp, nồng độ testosterone trong nghiên cứu.

Kết quả của nghiên cứu này chứng minh rằng điều trị bằng 200μmol sulforaphane chiết xuất từ bông cải xanh hàng ngày có thể làm giảm ở tỷ lệ nam giới bị ung thư tuyến tiền liệt tái phát.

3.2. Ảnh hưởng của kiểu gen GSTM1 đến sự thay đổi PSA

Các nhà nghiên cứu đã đo kiểu gen GSTM1 ở tất cả các bệnh nhân trước khi điều trị:

  • 12 đối tượng còn nguyên vẹn GSTM1.
  • 8 đối tượng có kiểu gen null GSTM1.

Cả kiểu gen GSTM1 đều không liên quan đến khả năng suy giảm PSA trong nghiên cứu. Ngoài ra, không có sự khác biệt đáng kể về nồng độ PSA trước và trong nghiên cứu phụ thuộc vào kiểu gen GSTM1.

Hy vọng qua những thông tin mà bài viết đã chia sẻ đã giúp bạn có góc nhìn khách quan về nghiên cứu lâm sàng của sulforaphane (sulforaphane clinic trial). Chúc bạn hạnh phúc và thành đạt trong cuộc sống.

 

Xếp hạng: 5 (1 bình chọn)